http://www.benhvienthongminh.com
Bệnh ghẻ (scabies,
gale)
I.
ĐẠI CƯƠNG:
Bệnh ghẻ là bệnh ngoài da phổ biến, bệnh lây, do một loại
côn trùng ký sinh trên da gây nên, có tên là Sarcoptes scabiei, Hominis (cái
ghẻ), có nơi còn gọi là con mạt ngứa (itch mite), thường hay gặp vào mùa xuân –
hè. .Bệnh do ghẻ cái gây nên, ghẻ đực không gây bệnh vì chết sau khi giao hợp.
Nhiễm bệnh ghẻ được phát hiện phổ biến và lưu hành khá rộng
rãi ở khắp nơi trên toàn cầu. Khoảng 300 triệu trường hợp trên toàn thế giới bị
ghẻ mỗi năm.
Bệnh ghẻ lây do nằm chung giường, mặc quần áo chung, lây qua
tiếp xúc da khi quan hệ tình dục… Bất kỳ ai, dân tộc nào, nam hay nữ, già hay
trẻ cũng có thể mắc bệnh ghẻ. Hầu hết sự lây truyền bệnh ghẻ xảy ra mang tính
chất gia đình vì nếu một thành viên trong nhà bị bệnh ghẻ thì khả năng những
người khác trong gia đình sẽ dễ mắc bệnh theo.
Những nước kém phát triển, điều kiện dinh dưỡng và vệ sinh
kém, bệnh có thể lây thành dịch ở các đơn vị tập thể như ở các đơn vị tân binh
mới nhập ngũ, trại giam, vùng dân cư đông đúc, nhà ở chật hẹp, thiếu vệ sinh.
II.
Đặc điểm
Cái ghẻ và lịch sử
Bệnh ghẻ tồn tại hơn 2500 năm, từ thời La Mã cổ đại. Thời
đó, người La Mã sử dụng thuật ngữ bệnh ghẻ để ám chỉ bất kỳ bệnh da nào gây
ngứa. Mãi đến thế kỷ 17, Giovanni Cosimo Bonomo mới tìm ra côn
trùng Sarcoptes scabiei là nguyên nhân của bệnh ghẻ. Các tên Sarcoptes
scabiei bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: sarx (the flesh)
có nghĩa là thịt, koptein (to smite or cut) có nghĩa là dập
nát hoặc cắt và từ scabere (to scratch) có nghĩa là xây
xước. Chỉ có ghẻ cái mới gây bệnh.
Cái ghẻ hình bầu dục, kích thước khoảng 0,25 mm đường kính
(mắt thường có thể thấy như một điểm trắng di động), có 8 chân, 2 đôi chân
trước có ống giác, 2 đôi chân sau có lông tơ, đầu có vòi để hút thức ăn. Chu kỳ
toàn bộ cuộc sống cái ghẻ kéo dài 30 ngày nếu cư trú ở thượng bì.
Ghẻ cái ký sinh ở lớp sừng của thượng bì, đào hang về ban
đêm, đẻ trứng về ban ngày, mỗi ngày ghẻ cái đẻ 1-5 trứng, 72-96 giờ nở thành ấu
trùng, sau 5-6 lần lột xác (trong vòng 20-25 ngày) trở thành cái ghẻ trưởng
thành, sau đó bò ra khỏi hang, giao hợp và tiếp tục đào hầm, đẻ trứng mới.
Khoảng <10% kết quả trứng đậu thành cái ghẻ trưởng thành.
Cái ghẻ di chuyển qua các lớp trên cùng của da bằng cách
tiết enzyme proteases để làm suy giảm tầng lớp sừng. Chúng ăn các mô bị phân
hủy nhưng không ăn máu. Chúng đi du lịch thông qua các lớp biểu bì, tạo ra các
tổn thương hang và để lại sau phân của chúng.
Ghẻ cái sinh sôi nảy nở rất nhanh, trong điều kiện thuận lợi một con ghẻ cái, sau 3 tháng có thể có một dòng họ 150 triệu con, ghẻ cái cũng chết sau khi đã đẻ hết số trứng của mình.
Ghẻ cái sinh sôi nảy nở rất nhanh, trong điều kiện thuận lợi một con ghẻ cái, sau 3 tháng có thể có một dòng họ 150 triệu con, ghẻ cái cũng chết sau khi đã đẻ hết số trứng của mình.
Ban đêm ghẻ cái bò ra khỏi hang tìm ghẻ đực, đây là lúc ngứa
nhất, dễ lây truyền nhất, vì ngứa phải gãi làm vương vãi cái ghẻ ra quần áo,
giường chiếu... Cái ghẻ sẽ chết sau khi rời vật chủ 4 ngày.
Cái ghẻ có nhiều loài, có loài gây bệnh ở người, có loại gây
bệnh ở súc vật như ngựa, cừu, dê, lợn, chó, mèo, thỏ, chuột v.v... Cái ghẻ gây
bệnh ghẻ cho súc vật cũng có thể truyền bệnh cho người. Nó thường không có
đường hầm và tổn thương có vảy. Riêng loại ghẻ ở lạc đà thì cái ghẻ giống ở
người và cũng có thể gây bệnh ghẻ ở người.
III.
Triệu
chứng lâm sàng.
Thời kỳ ủ bệnh thay đổi từ 2 - 40 ngày, trung bình từ 10-15
ngày.
Tổn thương đặc hiệu của bệnh ghẻ là luống ghẻ và mụn nước
(còn gọi là mụn trai và đường hang).
- Mụn nước trong bệnh ghẻ thường nhỏ mọc rải rác, trong như
hạt ngọc (nếu chưa bị bội nhiễm), nhỏ bằng hạt tấm, không bao giờ mọc thành
chùm, thường mọc ở vùng da non.
Đường hang do cái ghẻ đào ở lớp sừng là 1 đường cong ngoằn
ngoèo hình chữ chi, dài 2-3 cm, gờ cao hơn mặt da, màu trắng đục hay trắng xám,
không khớp với hằn da, ở đầu đường hang có mụn nước 1-2 mm đường kính, chính là
nơi cư trú của cái ghẻ.
- Đường hầm thường hiếm thấy, nhưng khi thấy dường hầm thì
có thể chẩn đoán xác định bệnh ghẻ.
- Tổn thuơng thứ phát thường do ngứa gãi gây nên, bao gồm:
vết xước gãi, vết trợt, sẩn, vẩy tiết, mụn nước, mụn mủ, chốc nhọt..,sẹo thâm
màu, bạc màu, tạo nên hình ảnh được ví như bức tranh "khảm xà cừ",
"hình hoa gấm".
Những tổn thương thứ phát như nhiễm khuẩn chủ yếu do Streptococcus
pyogenes và Staphylococcus aureu, viêm da, eczema hóa
thường che lấp, lu mờ tổn thương đặc hiệu gây khó khăn cho chẩn đoán.
Triệu chứng cơ năng: ngứa nhiều nhất là về đêm, lúc đi ngủ
do cái ghẻ di chuyển gây kích thích đầu dây thần kinh cảm giác ở da và một phần
do độc tố ghẻ cái tiết ra khi đào hang. Ngứa gãi gây nhiễm khuẩn....và có thể
có sốt.
Người bị nhiễm ký sinh trùng ghẻ lần đầu tiên trong vòng 2
tuần đầu hoàn toàn chưa có biểu hiện ngứa mặc dù ngứa ghẻ được so sánh với đau
đẻ và đòn ghen. Nhưng do có thể mới bị ghẻ xâm nhập nên chưa có sự phản ứng lại
nên chưa thấy ngứa, điều đó lý giải tại sao một số bệnh nhân có tổn thương ghẻ
thực sự mà hoàn toàn chưa thấy ngứa.
Những người bị tái nhiễm ghẻ thì xuất hiện ngứa dữ dội ngay
từ khi cái ghẻ xâm nhập vào da.
Vị trí tổn thương đặc hiệu: lòng bàn tay, kẽ ngón tay, ngấn
cổ tay, mu tay, bờ trước nách, quanh rốn, mông, 2 chân, đặc biệt nam giới hầu
như đều có tổn thương ở qui đầu, thân d¬ương vật. Phụ nữ còn bị ở núm vú, trẻ
em còn bị ở gót chân, lòng bàn chân, ghẻ ít khi có tổn thương ở đầu mặt.
IV.
Các thể
lâm sàng:
- Ghẻ giản đơn: chỉ có đường hang và mụn nước, ít có tổn
thương thứ phát.
- Ghẻ nhiễm khuẩn: có tổn thư¬ơng của ghẻ, mụn mủ do bội
nhiễm liên cầu, tụ cầu, có thể gặp biến chứng viêm cầu thận cấp.
- Ghẻ biến chứng viêm da, eczema hoá: do chà xát cào gãi lâu
ngày
- Ghẻ nhiễm khuẩn có biến chứng viêm cầu thận cấp.
- Ghẻ Na Uy (Norwrgian) – ghẻ vảy: khác với ghẻ thông
thường, tổn thương ghẻ không phải là mụn nước mà là đám vảy tiết lẫn vảy da dày
giống như bệnh vảy nến.
Tổn thương cả ở dưới móng, mặt và đầu. Điều đặc biệt là
triệu chứng ngứa rất nhẹ nhưng lại rất nhiều cái ghẻ nằm trong đám vảy tiết.
Ghẻ vảy rất hiếm gặp chỉ thấy ở những người có miễn dịch kém như: bệnh nhân
AIDS, hội chứng đao, người bệnh tâm thần phân liệt.
V.
Chẩn đoán
và chẩn đoán phân biệt
1. Chẩn đoán dựa vào:
- Tổn thương ở vị trí đặc biệt.
- Triệu chứng lâm sàng.
- Ngứa nhiều về đêm.
- Dịch tễ: gia đình, đơn vị , tập thể nhiều người bị.
- Soi tươi: dùng curette nạo mụn nước ở đầu luống ghẻ hoặc
nạo luống ghẻ, cho lên lam kính, nhỏ một giọt KOH 10%, soi kính hiển vi thấy
trứng hoặc cái ghẻ.
- Dùng kính lúp soi bắt được cái ghẻ nằm ở cuối đường hầm
trong da.
- IgE tăng cao.
- PCR.
2. Chẩn đoán phân biệt
- Tổ đỉa: mụn nước sâu, tập trung thành cụm, không có đường
hang, chỉ có ở lòng bàn tay, đầu ngón, mặt d¬ưới ngón, ria ngón bàn tay chân.
- Sẩn ngứa tuổi già.
- Sẩn ngứa trẻ em.
- Sẩn ngứa ngoại lai: viêm da dị ứng do cây cỏ, lá ngứa, do
nước suối, do hoá chất... nhưng không có mụn nước ở lòng bàn tay, kẽ tay, qui
đầu ..., không có tính chất dịch tễ lây lan người này sang người khác.
- Rận mu: chỉ có ở vùng mu .
- Bệnh thủy đậu, viêm da dạng herpes, viêm nang lông
VI.
Điều trị
Điều trị bệnh ghẻ tương đối dễ dàng, chỉ cần diệt hết cái
ghẻ và phòng tránh không bị tái nhiễm. Hầu hết những phương pháp điều trị đều
cho đáp ứng tốt, bệnh có thể khỏi hoàn toàn nhưng đôi khi cũng cần điều trị đợt
hai cách một thời gian sau đó khoảng từ 2 - 7 ngày.
Cần thực hiện đúng và đủ các nguyên tắc sau:
+ Chú ý phát hiện và điều trị sớm, bệnh sẽ chóng khỏi và ít lây
lan. Không gãi, không tự ý dùng các loại thuốc bôi như: thuốc rầy, thuốc súng,
DDT…rất nguy hiểm.
+ Tắm sạch, lau khô trước khi bôi hay xịt các loại thuốc do bác
sĩ chỉ định tùy tình trạng bệnh lý. Thoa, xịt thuốc toàn thân, từ cổ đến chân,
tốt nhất vào buổi tối trước khi đi ngủ. Có thể thoa thuốc 2-3 lần mỗi ngày,
liên tục trong 10-15 ngày.
+ Quần áo, mùng, mền, chiếu, gối nên giặt tẩy thật sạch; có thể
trụn nước sôi, phơi nắng cho thật khô, ủi nóng trước khi mặc… để diệt hết cái
ghẻ và trứng, đề phòng tái nhiễm hoặc lây lan bệnh. Tránh dùng chung quần áo và
các vật dụng cá nhân.
+ Phải để thuốc tiếp xúc với da đủ thời gian. Đa số các thuốc
được yêu cầu để tiếp xúc 24 giờ đối với người lớn, 12 giờ đối với trẻ em và phụ
nữ mang thai; sau đó, tắm rửa sạch sẽ lại bằng xà phòng.
+ Bệnh có thể tái phát từng đợt theo chu kỳ 3 tuần do trứng còn
sống sót và phát triển thành cái ghẻ trưởng thành. Bắt buộc điều trị lại theo
đúng phương pháp.
+ Phải điều trị đồng thời cho tất cả mọi người cùng bị ngứa đang
sinh hoạt, chung sống trong gia đình, lớp học, ký túc xá… tránh tình trạng tái
lây nhiễm lẫn nhau.
Tóm lại, ghẻ ngứa chỉ đơn giản là một bệnh ngoài da do nhiễm ký
sinh trùng cái ghẻ. Bệnh rất thường gặp, rất hay lây, khó điều trị triệt để
nhưng bệnh nhân và cả thầy thuốc cũng rất dễ không thừa nhận vì nhiều lý do!
Bệnh có thể có biến chứng, ít gây nguy hiểm đến tính mạng nhưng lại gây khó
chịu và làm giảm chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Việc điều trị ghẻ ngứa
thường khó khăn do ta dễ bỏ qua chẩn đoán, bệnh lại có nhiều đợt tái nhiễm liên
tục rất dễ nhầm lẫn với những bệnh cảnh khác.
VII.
Thuốc điều
trị
1.
Thuốc đông
y:
2.
lá cây ba
gạc, lá đào đun nước tắm, nhựa cây máu chó bôi tại chỗ, hoặc tắm biển khoảng một
tuần.
3.
Thuốc tây:
- D.E.P là
thuốc chống muỗi, vắt đốt nhưng có tác dụng diệt cái ghẻ nhanh và rẻ tiền, ít
độc tính. Bôi ngày 2-3 lần (không nên dùng cho trẻ sơ sinh và không bôi vào bộ
phận sinh dục).
- Benzyl benzoat (ascabiol, scabitox, zylate): bôi, xịt 2
lần/ngày.
- Eurax (crotamintan) 10%: thuốc bôi có tác dụng chống ngứa
và diệt cái ghẻ. Cứ 6-10 giờ bôi một lần. Thuốc an toàn có thể bôi vào bộ phận
sinh dục và dùng được cho trẻ sơ sinh.
- Permethrin cream 5% (Elimite) là thuốc chữa ghẻ ít độc
tính nhất, có thể dùng cho trẻ em và phụ nữ có thai.
- Lindane: xịt thuốc vào toàn bộ da từ cổ xuống chân. Sau
8-12 giờ tắm rửa thay quần áo, xịt thuốc 2 lần/tuần. Thuốc chữa ghẻ nhanh nhưng
độc với thần kinh nên không dùng cho trẻ nhỏ và phụ nữ có thai.
- Ivermactin uống kết hợp với thuốc thuốc bôi ngoài tại chỗ
đối với ghẻ vảy (là thuốc được dùng để điều nang sán và trị giun chỉ bạch
huyết). Ivermectin có hiệu quả trong hầu hết các trường hợp ghẻ điển hình, liều
200-250 mg / kg, điều trị lặp lại sau 7-14 ngày. Trẻ em dưới 5 tuổi hoặc ít hơn
15 kg không được điều trị bằng ivermectin.
- Thuốc kết hợp: kháng
sinh, steroid, kháng histamin, vitamin B1, C, oxyt kẽm, mỡ kháng sinh, dung
dịch milian; tím methyl 1% nếu có bội nhiễm tùy từng trường hợp.
Hai loại thuốc được dùng phổ biến hiện nay là:
Thuốc điều trị ghẻ ngứa
– Pemethrin (Acticin): đây là thuốc trị ghẻ với nồng độ 5%.
Người bệnh bôi thuốc lên các vùng da bị ghẻ từ 8 – 14 giờ, sau đó rửa sạch hoặc
tắm bằng nước ấm.
– Lindan (kwell): thuốc này sử dụng từ 8 – 12 giờ, sau đó rửa
sạch hoặc tắm bằng nước ấm. Tuy nhiên với thuốc này khuyến cáo không nên dùng
cho trẻ nhỏ, phụ nữ có thai và đang cho con bú, người bị co giật hoặc có rối
loạn thần kinh khác.
Lưu ý: Nếu bạn áp dụng các loại thuốc đông y và tây y trên trong vòng 2 tháng mà không hết bệnh thì liên hệ ngay benhvienthongminh. com để có loại thuốc tốt nhất, vì các loại thuốc trên đã không có tác dụng. Các loại thuốc đó đã quá yếu hoặc kháng thuốc nên càng áp dụng càng càng bệnh nặng hơn. có cam kết hoàn trả tiền gấp 10 lần nếu không hết bệnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét