Thứ Năm, 22 tháng 12, 2016

Enzyme là gì?



.. ENZYM LÀ GÌ ?
Enzym hay enzim (tiếng Anh: enzyme) hay còn gọi là men là chất xúc tác sinh học có thành phần cơ bản là protein. Enzyme là một phần rất quan trọng đối với mỗi chúng ta, lưu ý đến chế độ ăn uống hợp lý, cung cấp, bổ sung thêm enzyme để đảm bảo một cơ thể khỏe mạnh. Vì vậy hiểu biết về enzyme sẽ giúp bạn bảo vệ sức khỏe tốt hơn.

• Phân loại enzyme:
theo chức năng, Có 2 loại enzyme chính là:

- Enzyme chuyển hóa sản sinh trong các tế bào. Các loại enzyme chuyển hóa sẽ giúp cơ thể tổng hợp năng lượng và sử dụng năng lượng. Những năng lượng này rất quan trọng cho cơ thể vì chúng sẽ giúp chúng ta suy nghĩ, hít thở, chuyển động...
- Enzyme tiêu hóa tiết ra trong tuyến nước bọt, dạ dày, tuyến tụy và ruột non. Các loại enzyme tiêu hóa do trong bộ máy tiêu hóa sinh ra nhằm giúp cơ thể tiêu hóa thực phẩm. Enzymes tiêu hóa ( bao gồm 5 enzymes Protease, Amylase, Lactase, Cellulase, Lipase).
Ngoài các enzym do cơ thể sinh ra còn các enzyme có sẵn trong thức ăn của người, thường trong rau củ quả, có chứa sẵn enzyme của riêng chúng. Khi vào cơ thể, các loại enzyme này chỉ cần được “kích hoạt” bằng cách nhai các loại thực phẩm kể trên, vì vậy những loại thực phẩm này tiêu hao các loại enzyme tiêu hóa của cơ thể ít hơn, đồng thời giúp cơ thể tiết kiệm được năng lượng.


• Tính chất của enzym:

1. enzym có bản chất là protein nên có tất cả thuộc tính lý hóa của protein. Đa số enzym có dạng hình cầu và không đi qua màng bán thấm do có kích thước lớn.
2. tan trong nước và các dung môi hữu cơ phân cực khác, không tan trong ete và các dung môi không phân cực.
3. không bền dưới tác dụng của nhiệt độ, nhiệt độ cao thì enzym bị biến tính. Môt trường axít hay bazơ cũng làm enzym mất khả năng hoạt động.
4. enzym có tính lưỡng tính: tùy pH của môi trường mà tồn tại ở các dạng: cation, anion hay trung hòa điện.

5. enzym chia làm hai nhóm:
enzym một cấu tử (chỉ chứa protein) như pepsin, amylase... và các enzym hai cấu tử (trong phân tử còn có nhóm không phải protein). Trong phân tử enzym hai cấu tử có hai phần:
• apoenzym: phần protein (nâng cao lực xúc tác của enzym, quyết định tính đặc hiệu)
• coenzym: phần không phải protein (trực tiếp tham gia vào phản ứng enzym), bản chất là những hợp chất hữu cơ phức tạp.
• Vai trò của enzim trong quá trình chuyển hóa vật chất
– Nhờ enzim mà các quá trình sinh hóa trong cơ thể sống xảy ra rất nhạy với tốc độ lớn trong điều kiện sinh lí bình thường. Khi có enzim xúc tác, tốc độ của một phản ứng có thể tăng hàng triệu lần. Nếu tế bào không có các enzim thì các hoạt động sống không thể duy trì được vì tốc độ của các phản ứng sinh hoá xảy ra quá chậm.
– Tế bào có thể điều hòa quá trình chuyển hoá vật chất thông qua điều khiển hoạt tính của các enzim bằng các chất hoạt hoá hay ức chế. Các chất ức chế đặc hiệu khi liên kết với enzim sẽ làm biến đổi cấu hình của enzim làm cho enzim không thể liên kết được với cơ chất. Ngược lại, các chất hoạt hoá khi liên kết với enzim sẽ làm tăng hoạt tính của enzim.
– Ức chế ngược là kiểu điều hoà trong đó sản phẩm của con đường chuyển hoá quay lại tác động như một chất ức chế, làm bất hoạt enzim xúc tác cho phản ứng ở đầu của con đường chuyển hoá.
– Khi một enzim nào đó trong tế bào không được tổng hợp hoặc tổng hợp quá ít hay bị bất hoạt thì sản phẩm không những không được tạo thành mà cơ chất của enzim đó cũng sẽ bị tích luỹ lại gây độc cho tế bào hoặc có thể được chuyển hoá theo con đường phụ thành các chất độc gây nên các triệu chứng bệnh lí. Các bệnh đó ở người được gọi là bệnh rối loạn chuyển hoá.
• Vai trò của enzyme trong cơ thể người:

Tiến sĩ Edward Howell, người tiên phong trong việc nghiên cứu enzyme cho rằng con người chỉ có một số lượng men tiêu hóa giới hạn và chất lượng cuộc sống của chúng ta sau này ra sao phụ thuộc vào việc chúng ta đã bảo quản nguồn tài nguyên đó như thế nào. Theo đó, ông cho rằng nếu chúng ta ăn những thực phẩm đã bị mất gần hết enzyme thì cơ thể phải làm việc nhiều hơn để sản xuất ra enzyme bù lại để hỗ trợ cho hệ tiêu hóa tiến hành đồng hóa chất trong thực phẩm đó. Quá trình sản xuất enzyme liên quan chặt chẽ đến quá trình tiêu hóa và nó tiêu tốn một lượng năng lượng lớn. Khi tiêu thụ thức ăn thiếu enzim, các enzim trong cơ thể sẽ phải hoạt động hết công suất. Các mô như não, tim, phổi, thận, gan và cơ sẽ không nhận đủ lượng enzyme chúng cần để hoạt động bình thường. Theo tiến sĩ Howell, thiếu hụt enzyme chuyển hóa là nguyên nhân chính dẫn đến phần lớn chứng bệnh như bệnh tim mạch, bệnh ung thư, tiểu đường và các bệnh mãn tính khác.
• Tuổi tác và các nguồn cung cấp enzyme:

Khi chúng ta có tuổi, cơ thể sẽ dần dần mất khả năng sản xuất enzyme, và giảm dần theo chu kỳ mười năm. Lúc đầu, có thể bạn không nhận ra sự khác biệt, nhưng dần dần, bạn sẽ nhân ra rằng cơ thể bạn đang thiếu hụt enzyme khi bạn có các cảm giác mệt mỏi, dị ứng và khó tiêu như ợ nóng, đầy bụng sau khi ăn, rồi bạn có thể sẽ bị táo bón và thậm chí viêm loét dạ dày. Vậy thay vì tiêu xài nguồn tài nguyên enzyme sẵn có, các bạn có thể bổ sung nguồn enzyme của mình bằng các loại thực phẩm có chứa enzyme như dứa, xoài, kiwi, nho, trái bơ, mật ong nguyên chất, phấn hoa, sản phẩm từ sữa, nấm nước, nấm sữa, quả đu đủ, nước ép cỏ lúa mì, gạo mầm, nước dừa, đồng thời bổ sung chế độ dinh dưỡng nhiều thực phẩm tươi ngon. Hạn chế ăn các đồ ăn nấu quá chín hoặc cháy, đồ ăn đã qua xử lý mất các chất dinh dưỡng.
• Lịch sử phát triển:

Ngay từ cuối thể kỷ 17 và đầu thế kỷ 18, sự tiêu hóa thịt bằng các chất tiết ra từ dạ dày và sự chuyển hóa tinh bộ thành đường bởi các chất tiết ra ở thực vật và nước bọt đã được biết đến. Tuy nhiên, cơ chế của các quá trình vẫn chưa được xác định.
Năm 1833, Nhà hóa học Pháp Anselme Payen đã phát hiện ra enzym đầu tiên, diastase. Một vài thập niên sau, khi việc nghiên cứu lên men đường thành rượu bằng nấm men,Louis Pasteur đã đi đến kết luận tằng quá trình lên men được xúc tác bởi một yếu tố quan trọng có trong tế bào nấm men được gọi là "ferments", nó được cho là chỉ có chức năng trong các sinh vật còn sống. Ông đã viết rằng "lên men rượu là một phản ứng có liên quan đến đời sống và tổ chức của các tế bào nấm men chứ không phải là các tế bào chết.

Năm 1877, nhà vật lý học người Đức Wilhelm Kühne đã sử dụng từ enzyme, trong tiếng Hy Lạp là ενζυμον, có nghĩa là "trong men", để miêu tả quá trình này.

Năm 1897, Eduard Buchner đã gởi bài báo đầu tiên về khả năng chiết xuất men từ các tế bào nấm men còn sống để lên men đường. Trong một loại các thí nghiệm tại Đại học Berlin, ông nhận thấy rằng đường được lên men thậm chí không có mặt các tế bào nấm men trong hỗn hợp.

Ông đặt tên enzym lên men sucrose đó là "zymase". Năm 1907, ông đã nhận được giải Nobel hóa học "cho nghiên cứu sinh hóa của ông và phát hiện của 6ng về sự lên men không có tế bào". Theo sau ví dụ của Buchner, các enzym thường được đặt tên theo phản ứng mà nó diễn ra. Đặc biệt, để đặt tên cho một enzym, cần phải thêm tiếp vị ngữ -ase vào tên của chất nền (như lactase là enzym phân giải lactose) hay loại phản ứng (như DNA polymerase tạo ra các polymer DNA)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


PHƯƠNG PHÁP CHĂM SÓC SỨ KHỎE HIỆN ĐẠI - CƠ HỘI KINH DOANH MANG ĐẾN GIÁ TRỊ CON NGƯỜI BẠN.



PHƯƠNG PHÁP CHĂM SÓC SỨ KHỎE HIỆN ĐẠI - CƠ HỘI KINH DOANH MANG ĐẾN GIÁ TRỊ CON NGƯỜI BẠN.
Liên hệ: Mr Lâm: 0935141438- 0909772566 ( có xài zalo)

Một số kết quả khi dùng enzim:
Bạn hãy cùng chúng tôi thực hiện sứ mệnh 1 đất nước Việt Nam sống khỏe mạnh và Thông minh.

Tác dụng của Enzymes:

10 Chức Năng Chính Của Enzymes: Làm giảm quá trình oxy hóa, giúp phân hủy và tổng hợp quá trình trao đổi chất, làm sạch máu, chống viêm và hỗ trợ đào thải độc tố. Kích thích sản sinh tế bào mới, bổ sung khoáng chất; Tăng cường tuần hoàn, giảm căng thẳng thần kinh…
1. Thanh lọc cơ thể: Duy trì máu yếu kiềm, loại bỏ độc tố khỏi cơ thể, kích thích tiêu hóa và tăng cường khả năng miễn dịch.
2 . Chiến đấu viêm: Các enzyme không lành nhưng họ tăng cường các tế bào máu trắng tự chữa lành.
3 . Chống vi khuẩn: Kích thích các tác dụng chống vi khuẩn của tế bào bạch cầu để loại bỏ sinh vật gây bệnh , kích thích tái tạo tế bào và xử lý bệnh từ nguồn.
4 . Phân hủy chất thải: Các enzyme phân hủy hiệu lực có thể bài tiết chất độc trong cơ thể và cho phép cơ thể hoạt động bình thường.
5 . Thanh lọc máu: Phá vỡ cholesterol để duy trì huyết yếu kiềm và kích thích lưu thông máu.
6 . Kích thích tế bào: Kích thích sự trao đổi chất của các tế bào cho sức mạnh và năng lượng, và đổi mới các tế bào bị hư hỏng.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét